28 tháng 2, 2015

Những chi tiết in trên tiền Việt Nam


(Văn hóa) - Nhà máy dệt, bến cảng, giàn khoan dầu… tái hiện hoạt động sản xuất, kinh tế đất nước là hình ảnh được chọn in trên các tờ tiền Việt Nam.
Những chi tiết in trên tiền Việt Nam hầu hết đều mang những ý nghĩa riêng. Hình ảnh trên tờ 500 đồng là Cảng Hải Phòng nằm tại hai quận Hồng Bàng và Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Được hình thành từ năm 1876, trải qua hơn 100 năm phát triển, Cảng được xem là cửa khẩu giao lưu hàng hóa quan trọng, xuất nhập khẩu của 17 tỉnh phía Bắc đến nhiều quốc gia và ngược lại.
Từng là nhà máy lớn nhất Đông Dương và là địa cứ vững mạnh của phong trào công nhân thời kỳ cách mạng, bối cảnh sản xuất tại nhà máy Sợi Nam Định được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn in lên tờ tiền 2.000 đồng, phát hành năm 1988.
Hình ảnh trên tờ 5.000 đồng là nhà máy thủy điện Trị An Đồng Nai, được xây dựng năm 1984 và đưa vào hoạt động năm 1991.
Nhà máy thủy điện Trị An có 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng điện trung bình hàng năm 1,7 tỉ KWh. Đây là công trình có ý nghĩa kinh tế tổng hợp của Đồng Nai và cả nước.
Những giàn khoan dầu trên biển của mỏ dầu Bạch Hổ được tái hiện trên mặt sau của tờ tiền 10.000 đồng polime. Bạch Hổ thuộc bồn trũng Cửu Long, cách bờ biển Vũng Tàu 145km, trữ lượng khoảng 300 triệu tấn và được khai thác thương mại từ giữa năm 1986.
Từ mỏ này có đường ống dẫn khí đồng hành vào bờ cung cấp cho nhà máy khí hóa lỏng Dinh Cố, nhà máy điện Bà Rịa và Trung tâm điện lực Phú Mỹ (Vũng Tàu).
Bên cạnh đó, nhiều tờ tiền Việt Nam có hình ảnh về nông nghiệp, lâm nghiệp của nhiều vùng miền, thể hiện tinh thần lao động hăng say của người dân lao động. Tờ 200 đồng là hình ảnh người nông dân đang gặt lúa, lái máy cày trên cánh đồng làng.
Tờ tiền 1000 đồng là hình ảnh lâm nghiệp, người lao động cưỡi voi, khai thác gỗ tại vùng núi của Tây Nguyên.
(Theo Kiến Thức)

26 tháng 2, 2015

MẤY NGÀY TẾT & CHỮ TÂM



MẤY NGÀY TẾT & CHỮ TÂM
I-TẾT ẤT MÙI
Mấy ngày với Tết ồn ào
Thế rồi đâu đấy lại vào tĩnh yên !
Con người nào khác cánh chim
Nay Nam mai Bắc ai tìm đến ai ?
Tuổi già đọng chút sức trai
Vẫn mong thức dậy sớm mai ơn đời. (*)
(*) Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
     Cho ta thêm ngày nữa để yêu thương.
II- CHỮ TÂM
Góp sưu tầm trên mạng

  

* Tâm an vạn sự an
Tâm bình thế giới bình.
* Dù đời sóng gió điêu linh
Chữ tâm cứu rỗi hành trình con đi.
* Tâm nhàn muôn sự thông ba cõi
Một tiếng cười khan ấm đất trời.
* Nếu bạn tự có tâm an
Ở đâu cũng thấy như đang ở nhà.
* Đời gian khó xin đừng oán hận
Làm bạn ân tình đức nhẫn tại tâm.
* Tâm kiêng hẹp hòi
Khí kiêng hung hăng
Tài kiêng bộc lộ.
* Nhẹ chuông ai điểm đời hư ảo
Đánh thức vầng trăng sáng tự tâm.
* Hữu tâm tất thành tựu
Vô nhẫn bất thành nhân.
* Lắng lòng lại cho thời gian ngưng đọng
Trải lòng ra để mở rộng không gian.
* Nhận đời manh áo bát cơm
Trao đời tất cả tấm lòng thanh cao.
* Mở rộng tâm ra lòng thanh thản
An vui tự tại đời thong dong.
* Chân tâm tài tất đáo
Hữu đức phúc tự lai.
* Sống không giận không hờn không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động mà không xao động
Sống là thương mà chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.






25 tháng 2, 2015

Chữ TÂM và chữ NHẪN


TÂM
" Một vành trăng khuyết ba sao giữa trời "


NHẪN
*
Có khi NHẪN để yêu thương
Có khi NHẪN để liệu đường lo toan

Có khi NHẪN để vẹn toàn
Có khi NHẪN để chớ tàn hại nhau
**

Có khi NHẪN để yêu thương
Có khi
NHẪN để tìm đường tiến thân

Có khi
NHẪN để chuyển vần
Thiên thời địa lợi nhân tâm hiệp hoà
Có khi
NHẪN để vị tha
Có khi
NHẪN để thêm ta bớt thù
Có khi
NHẪN tính giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt, đường tu ai tường?
Có khi
NHẪN để vô thường

Không không, sắc sắc, đoạn trường trần ai!
Có khi NHẪN để lắng tai
Khôn khôn, dại dại, nào ai tránh vòng?
Có khi
NHẪN để khoan dung,
Ta vui, người cũng vui cùng có khi.
Có khi
NHẪN để tăng uy
Có khi
NHẪN để kiên trì bền gan
Có khi
NHẪN để an toàn
Có khi
NHẪN để rõ ràng đúng sai
Bạn bè giao thiệp nào ai?
Có khi
NHẪN để kính người trọng ta
Kể ra cũng khó dễ mà,
Chữ
TÂM, chữ NHẪN xem ra cũng gần


 

24 tháng 2, 2015

Dê trong văn chương Việt



Dê trong văn chương Việt
TP - Trong 12 con giáp, Dê được xem là biểu tượng của tính ôn hòa, thuần hậu nhưng cũng không kém phần nhanh trí. Con dê là con vật gắn bó với con người từ lâu. Thế nên hình ảnh con dê đã xuất hiện khá phổ biến trong văn chương người Việt với nhiều biểu trưng phong phú đa dạng.
Tác phẩm: “...Cho thiếu nữ rước xuân vào”. Chất liệu: mực, màu nước trên giấy - 2015. Họa sĩ: Nguyễn Quân.
Trong kí ức tuổi thơ của mỗi người Việt Nam khi chơi trò dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao quen thuộc: “Dung dăng dung dẻ/Dắt trẻ đi chơi/Đến cửa nhà trời/Lạy cậu lạy mợ/Cho cháu về quê/Cho dê đi học/Cho cóc ở nhà/Cho gà bới bếp/Ngồi xệp xuống đây”.
Tiếp cận kho tàng thành ngữ tục ngữ, chúng ta nhận thấy hình ảnh con dê cũng có nhiều biểu trưng phong phú. Khi muốn phê phán bọn buôn gian bán lận người ta nói Treo đầu dê bán thịt chó, muốn đánh giá việc diễn đạt lan man, huyên thuyên những chuyện lặt vặt, vớ vẩn người ta dùng thành ngữ “Cà kê dê ngỗng”, “Máu bò cũng như tiết dê” lại nhằm nhìn nhận hai chuyện, hai sự việc, sự vật chẳng khác gì nhau mấy về mọi phương diện.
Hơn thế nữa để mỉa mai cách thức làm ăn không biết tính toán hoặc việc bỏ vật hữu ích để lấy thứ chẳng ra gì của một số người, dân gian đã thâm thúy: “Buồn ngủ buồn nghê?/ Bán bò tậu ruộng, mua dê về cày/ Đồn rằng, dê đực khỏe thay,/ Bắt ách lên cày, nó lại phá ngang”.
Dê là loài vật được thuần dưỡng từ sớm, có thể giết thịt để chế biến thành nhiều món ăn ngon. Cũng vì lẽ này mà “dê béo”, một trong ba điều thú vị đã đi vào câu tục ngữ sau: “Thế gian, ba sự khôn chưa/ Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ”. Phải chăng cũng chính vì điều này mà dê có mặt trong lễ vật của đám cưới xưa: “Cưới em tám vạn trâu bò/ Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm”.
Sách Lĩnh Nam chích quái, ở chương đầu tiên, về họ Hồng Bàng, đã kể lại rằng từ thời xa xưa, người Việt trong hôn nhân, đã biết giết trâu, dê làm đồ lễ, con dê đã được nuôi làm gia súc và sử dụng vào việc tế lễ.
Vào thời nhà Nguyễn, con dê được sử dụng trong việc tế lễ: “Dê vốn thật thuộc loài tế lễ/ ... Để hòng khi tế thánh tế thần...”; và “Hễ có việc lấy dê làm trước/Dê dâng vào người mới lạy sau”. (Lục súc tranh công).
Theo Ðại Nam thực lục Chính Biên, dưới triều đại vua Minh Mạng, mùa Ðông năm Minh Mạng (1836) thứ 17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê cái, chọn 20 con dê đực giao Tể sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn Thượng có thịt dê ướp dương hải.
Phải chăng cũng vì điều này mà chúng ta có thành ngữ “kêu như dê tế thần”?
Dê đực tượng trưng cho mãnh lực và nhu cầu tính dục bởi do tập tính nên một chàng dê có thể phục vụ cho cả đàn dê cái mà không mấy vất vả. Trong các xã hội xưa, đạo đức và tôn giáo tìm mọi cách để “khắc kỉ”, thì với sinh lực “phong phú” của chàng dê như thế rất dễ bị chê bai, phê phán. Những từ ngữ không mấy hay ho cũng vì thế mà xuất hiện: Dê xồm, dê gái, dê cụ...
- Ông già ông đội nón cồi/ Ông dê con gái, ông Trời đánh ông.
- Dê xồm ăn trái khổ qua/ Ăn nhằm đậu đũa, chết cha dê xồm!
- Bươm bướm mà đậu cành bông/Ðã dê con chị, lại bồng con em
(Ca dao)
Trong tác phẩm nổi tiếng Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nhân vật có sức sống lâu bền, đi vào đời sống trong đó có nhân vật Bùi Kiệm. Để cực tả bản chất của nhân vật này, tác giả viết: Con người Bùi Kiệm máu dê/Ngồi trơ bộ mặt, như dề thịt trâu.
“Bùi Kiệm máu dê” là cách nói đặc sắc làm bật nổi bản chất dâm ô của nhân vật này bởi họ Bùi đã từng ép Kiều Nguyệt Nga lấy hắn làm vợ khi nàng đang lâm nạn phải ở nhờ nhà hắn.  
Trong văn chương trung đại, từ thế kỉ 13, với áng văn chính luận nổi tiếng Dụ chư tỳ tướng hịch văn, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã trải lòng ái quốc và niềm căm thù giặc mãnh liệt qua những lời thống thiết: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu nhương, gặp phải buổi gian nan này, trông thấy những ngụy sứ đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tổ phụ…”.
Trần Quốc Tuấn đã xem giặc như cú diều, như dê chó. Đó là chẳng phải niềm căm phẫn tột độ trước thái độ ngạo mạn hống hách của bọn ngụy sứ Mông - Nguyên? Thời hiện đại, nhân dân ta cũng xem thực dân là loài dê chó trong Bài ca cách mạng
Này anh chị em lao khổ
Nông nỗi này ai tỏ chăng ai
Đã non tám chục năm rồi
Làm thân trâu ngựa cho loài chó dê.
Trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập, còn có hình ảnh con dê độc lập, đi thẳng từ thiên nhiên vào thi ca mà không cần phải qua một điển cố nào của văn chương Trung Hoa: Ong già buông nọc châm hoa rữa/
Dê yếu văng sừng húc dậu thưa (Tương phùng).
Đọc đến đây chúng ta thấy thú vị bởi mấy trăm năm sau, tương truyền nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dạy dỗ bọn dốt nát bằng những vần thơ sâu cay, mà hai câu thơ cuối bài biến thể của hai câu thơ trên: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ/Lại đây cho chị dạy làm thơ/Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
Con dê vốn tính hiền lành dễ thương, không hiểu sao người đời lại thành kiến phải chăng vì trời phú cho những anh chàng dê có sức lực phi thường trong chuyện ái ân? Thật oan uổng cho loài dê! Nhân năm Dê nói chuyện Dê trong văn chương cũng nhằm nhìn nhận lại vai trò quan trọng của loài vật này trong đời sống, trong văn hóa của người Việt.
Từ chuyện Dê ngẫm lại chuyện người mà tự chiêm nghiệm lại, lắng đục gìn trong.