Chuyện ở ngôi trường không có... giáo viên nữ
(Dân
trí) - Để “cõng chữ” qua một con núi cao lên đến gần 1500m cho học trò phải là
một kỳ tích, có lẽ cũng bởi thế mà 7 năm qua, ngôi trường phổ thông Cao Sơn
(huyện Bá Thước, Thanh Hóa) chỉ có bước chân của những người thầy.
Nhọc nhằn “cõng chữ” lên non
Đã từng nghe chuyện kể về những
người thầy ở ngôi trường Cao Sơn là những "người hùng hiện đại" thế
nhưng chỉ khi vượt qua ngọn núi cao ngút ngàn bằng con đường mòn rộng chừng vài
gang tay lởm chớm những khối đá nhô lên nhô xuống mới vào được với Cao Sơn (xã
Lũng Cao, huyện Bá Thước, Thanh Hóa) thì tôi mới chợt hiểu người ta đã nói
không sai.
Gian nan
đường đến Cao Sơn.
Già làng ở đây cho biết, ngày xưa
nếu có việc phải xuống xã, họ phải đi bộ cả một ngày trời, còn bây giờ đã dễ đi
hơn nhiều rồi nên cụ già và trẻ nhỏ nơi này chỉ biết đến Cao Sơn là cả một thế
giới.
Nói như vậy để có thể hiểu phần nào
nỗi nhọc nhằn với nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của những người thầy miền xuôi
đã “cõng chữ” qua con núi ấy đến với học trò dân bản. Và cũng dễ hiểu vì sao
ngôi trường phổ thông Cao Sơn từ khi thành lập cho đến bây giờ chưa hề có bước
chân của một giáo viên nữ nào.
Trường phổ thông Cao Sơn được
thành lập từ năm 2006 đến nay. Dường như biết nữ giới không thể đủ sức chinh
phục ngọn núi cao chọc trời để đến với học trò ở một nơi “thâm sơn cùng cốc”
như Son Bá Mười nên cũng không có giáo viên nữ nào được phân công lên đây công
tác.
7 năm trôi qua, nhiều thầy ở lại,
nhiều thầy cũng bỏ bản mà ra đi chỉ còn lại ở ngôi trường này 18 thầy
giáo tâm huyết và kiên cường, ngày ngày cần mẫn, miệt mài gieo cấy những
“mùa chữ” trên mảnh đất cao chọc trời với vô vàn những khó khăn, thiếu thốn.
Phải nói bao nhiêu con chữ mà các
thầy truyền đến với học trò Cao Sơn là bấy nhiêu sự hy sinh. Nói như thế mà vẫn
cảm thấy như ngôn từ chưa diễn tả hết được. Chỉ có đặt chân lên mảnh đất ấy,
mới thấy hết được nỗi vất vả, gian truân mới thấy sự hy sinh của những thầy
giáo nơi này là vô bờ.
Gặp các thầy, tôi cứ thắc mắc mãi về
sức mạnh nào khiến các anh có thể leo qua ngọn núi ấy và ở lại cho đến bây giờ.
Như đụng đến những tâm tư tình cảm mà những người trồng người trên mảnh đất này
lâu nay cất giấu, ai cũng muốn dốc bầu tâm sự.
Khó khăn chồng
chất khó khăn, các thầy vẫn bám trường, bám lớp mang chữ đến với học trò.
Thầy hiệu trưởng Trịnh Văn Dũng
(quê Thọ Xuân, Thanh Hóa) đã gắn bó với ngôi trường từ khi bắt đầu dựng
lên trường. Từ những ngày đầu mới tốt nghiệp, thầy đã gắn bó với mảnh đất, với
ngôi trường và những học sinh nghèo vùng cao thế nhưng chỉ khi lên với Cao Sơn,
thầy cũng mới thấy đây mới chính là khó khăn.
Với bao vui buồn, bao khó khăn nhưng
khi được hỏi đã có giây phút nào thầy nản lòng mà muốn rời bỏ nơi này để ra đi
không thì thầy cười rồi khẳng định chắc chắn rằng “chưa từng có ý nghĩ đầu
hàng”.
Thầy Dũng kể: “Năm đầu tiên lên đây,
trường lớp làm gì được như bây giờ mà chỉ là những căn nhà dựng tạm bằng tranh
tre nứa, giáo viên cũng phải dồn hết lại ở chung để nhường chỗ cho các cháu
học. Đêm nằm cảm nhận rõ từng tiếng gió thốc vào trong. Mùa hè còn đỡ, mùa đông
khí hậu ở Cao Sơn lúc nào cũng trung bình dưới 10 độ, có nhiều khi nhiệt độ chỉ
còn 0 độ, đụng tay vào nước đã cảm nhận thấy đau rát thấu xương. Không những
thế điện, nước, sóng điện thoại... tất cả đều không có. Đó là chưa kể đến việc
những năm đầu tiên, học sinh chưa chịu đến trường đi học. Mỗi ngày các em lại
đến ít đi”.
Thức ăn trong này cũng thật là hiếm
hoi, mỗi lần về dưới xuôi, các thầy lại chật vật cõng nào gạo, nào cá khô, tép
khô... Đường đi đã khó, mang theo những đồ đoàn như vậy lại càng khó hơn. Có
nhiều khi trời tối rồi mà vẫn chưa vào được đến trường, các thầy đành dùng gậy
khua tìm đường, mò mẫm đi trong đêm.
Khó khăn chồng chất khó khăn là thế,
nhưng khi hỏi động lực nào để các thầy có thể ở lại đương đầu với nó để
mang con chữ đến với học trò thì các thầy cười bảo đó là “cơ duyên” rồi dần dần
quen. Tôi thì đã không nghĩ vậy, phải có một trái tim đầy tình yêu và sự nhiệt
huyết vô bờ với học trò nơi này mới có thể khiến các anh dũng cảm hy sinh. Và
có lẽ giây phút nhìn thấy học sinh run bần bật, đầu trần, chân đất đến lớp,
hình ảnh ấy khiến tình yêu thương xóa tan nỗi nhọc nhằn.
Không có điện,
ban ngày các thầy phải tranh thủ soạn giáo án sau những giờ lên lớp.
Do đi lại khó khăn nên trước đây có
khi mấy tháng các thầy mới về dưới xuôi một lần. Bây giờ các thầy bảo
đường đã dễ đi hơn trước, đoạn từ chân núi lên cũng đang được làm nên có thể về
xuôi nhiều hơn. Có một điều mà hầu hết các thầy đều tâm sự đó là ai ở trên này
về cũng cần phải nói dối vì sợ những người thân của mình lo lắng.
Thầy Trần Ngọc Hải ngay từ khi ra
trường đã được phân công về đây giảng dạy. Tâm sự về công việc của mình,
anh trải lòng: “Bao nhiêu khó khăn là vậy thế nhưng mình và anh em ở đây khi về
là trút bỏ hết những suy nghĩ, những mệt mỏi ở trường. Không bao giờ phàn nàn
với bố mẹ hay vợ con nơi mình công tác khổ ra sao, vất vả thế nào. Lần nào cũng
vội vã trở về rồi lại vội vã lên đường. Thời gian trên đường nhiều hơn thời
gian ở nhà”.
Không chỉ gieo chữ cho học trò, các
thầy ở ngôi trường Cao Sơn này còn có nhiều nhiệm vụ hơn thế. Nếu trong làng có
công việc gì lớn như đám cưới, đám ma, dựng nhà... các thầy lại là những nhân
vật không thể thiếu.
Mùa màng đến, sau những giờ lên lớp,
các thầy lại vào bản làm giúp bà con. Yêu thương các thầy, những năm gần đây
học sinh đã không còn bỏ học. Trường lớp càng ngày càng đông học sinh hơn,
không còn chuyện phải đi vận động như năm đầu tiên dựng trường.
Các
thầy phân công nhau để chuẩn bị bữa ăn.
7 năm đương đầu với nhiều khó khăn
thử thách tưởng như khó lòng vượt qua, các thầy đã càng thêm gắn bó với mảnh
đất như là máu thịt của mình. Hơn 30 năm làm nghề Sư phạm, thầy Vi Văn
Hoan (54 tuổi) đã chứng kiến nhiều đồng nghiệp cùng thế hệ không chịu được gian
khổ, khó khăn nên phải bỏ nghề. Gắn bó với Cao Sơn gần chục năm, mái đầu thầy
đã hoa râm, đôi bàn tay chai sạn vì chống gậy băng rừng. Tuổi cao, nhiều lần
thầy Hoan định xin chuyển công tác nhưng rồi như có một sự níu kéo nào đó không
định nghĩa nổi, thầy vẫn ở lại. Nấn ná mãi thầy bảo thôi thì vài năm nữa đến
tuổi nghỉ hưu thì về luôn.
Ngôi trường
phổ thông Cao Sơn nằm sau những dãy núi cao chọc trời.
Một buổi chiều cuối năm trong tiết
trời lạnh cắt da nơi mảnh đất mù sương này, tôi vẫn cảm nhận thấy có ánh lửa ấm
áp trong mắt của các thầy khi bước trên bục giảng. Ánh mắt ấy khiến chúng tôi
hiểu vì sao các anh đã cống hiến cả tuổi trẻ cho nghiệp nhọc nhằn cõng chữ lên
non...
Nguyễn Thùy
họ _những giáo viên ấy là những người vì dân vì tương lai đất nước ,đọc những bài thế này tôi thấy xã hội VN hiện tại quá bất công . Một bân tôi làm quản lý ở một trường đại học kể : Mỗi lần lên BỘ đều phải rải phong bì từ bộ trưởng xuống các các vụ. đúng là ngồi mát ăn bát tiền , còn giáo viên quèn ở vùng xa thì cực khổ !
Trả lờiXóaNhà nước cần phải có chế độ đãi ngộ đặc biệt cho giáo viên ở miền núi, những nơi vùng sâu vùng xa như thế này để động viên và làm dịu bớt nỗi vất vả của họ. Về phương diện này họ là những người anh hùng. Đáng khâm phục sự hy sịnh cao cả của họ.
Trả lờiXóaĂn tết nhớ công ơn các thày bản cao...
Trả lờiXóaNhững người thầy đáng kính trọng và khâm phục!
Trả lờiXóaCảm ơn các cụ VU DUY KHAC, Le Tien Hoan, vu song thu, Thanh Mai. Vâng, những thầy giáo lên dạy học và đúng là vì sự nghiệp giáo dục ở vùng cao ở các ngôi trường "không có gv nữ" như trong bài trên là những anh hùng . Nhớ công ơn các thày bản cao (vu song thu); Những người thầy đáng kính trọng và khâm phục (Thanh Mai); Đáng khâm phục sự hy sinh cao cả của họ (Le Tien Hoan) và cần thiết khẩn trương hơn cả là phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho các thầy giáo vùng cao như bài nói trên ,không để bất công (VU DUY KHAC và Le Tien Hoan). Bộ GD&DT có làm được điều này không? Hay cơ quan Bộ chỉ là cửa quan?
Trả lờiXóa