Vài tâm sự của nhạc sĩ Văn Cao về Tiến quân
ca
Bài viết theo lời kể của Nghiêm Bằng, con trai thứ hai của Nhạc sĩ Văn Cao.(Việt báo).
Bài viết theo lời kể của Nghiêm Bằng, con trai thứ hai của Nhạc sĩ Văn Cao.(Việt báo).
Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày
tại căn gác hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền... khi ấy nhạc sĩ chưa được gặp các
chiến sĩ cách mạng và không biết họ hát như thế nào...
Đó là những kỷ niệm về bài Quốc ca do chính con
trai ông, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nghiêm Bằng kể lại.
Nếu không có Vũ Quý…
Không
biết bao nhiêu lần, khi đất nước trong dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn, nhất là
mỗi khi bài Tiến quân ca vang
lên, tôi thoáng nhìn gương mặt cha tôi – nhạc sĩ Văn Cao, niềm vui bỗng hiện
lên trong ánh mắt ông. Và trong giây lát, ánh mắt ông lại lặng buồn…
Rồi không chỉ một lần, sau những phút tĩnh lặng với những
năm tháng đang trở lại, thấy tôi ở bên, khi đã dần vơi ly rượu nhỏ, giọng ông
như nghẹn lại.
Ông khẽ khàng tâm sự với tôi là ông không khỏi không nghĩ
đến người bạn, người anh và cũng là người lãnh đạo đầu tiên, trực tiếp giác
ngộ ông vào Việt Minh hồi năm 1944 tại Hà Nội.
Người đó, đã không giao bất kỳ khẩu súng nào cho ông hoạt
động, lại chính thức giao nhiệm vụ cho ông sáng tác ngay một bài hát để hát
trong ngày ra đời sắp tới của một đội quân vũ trang khóa quân chính kháng
Nhật trên chiến khu Trần Hưng Đạo tại Việt Bắc.
Nhiệm vụ đầu tiên này thật thích hợp với năng khiếu sáng
tác bộc lộ từ năm tháng ông còn ở tuổi thiếu niên. Người giao nhiệm vụ đó,
chính là Vũ Quý (còn gọi là Quý đen) – một huấn luyện viên bơi lội, xưa từng
huấn luyện ông trong hoạt động thể thao tại Hải Phòng, lúc anh đang là lãnh
đạo (cùng với các đồng chí Lê Quang Đạo, Nguyễn Văn Trân…) trong Ban cán sự
thành phố Hà Nội (nay gọi là Thành ủy).
Hải Phòng ngày ấy, là nơi ông sinh ra lớn lên cùng với lứa
thanh, thiếu niên trường Bô-nan (nay là trường Ngô Quyền) và cùng dần theo
cách mạng sau này.
Ông nhận lời Vũ Quý và ngay hôm đó chính thức gia nhập
Việt Minh, bắt tay vào việc sáng tác ngay một bài hát với thể loại hành khúc
của một đội quân, khác với những ca khúc trữ tình ông thường quen sáng tác
mỗi khi có xúc cảm trong tâm hồn. Ngày đó, là một ngày của tháng 9/1944.
Và như ông từng bồi hồi viết lại trong hồi ký “Tại sao tôi
viết Tiến quân ca”: “Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày
tại căn gác hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà 2
tầng, mấy làn cây và một màn trời xám.
Ở đây thường vọng lên những chiếc xe bò chở xác người chết
đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe
cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu
ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở
đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại”…
Rồi: “…Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em tôi
đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi
một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi,
các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ
đợi tôi tìm cách giúp đỡ.
Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ
trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ
biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi
đi.
Tôi chưa được gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong
khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách
viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được”.
Cứ miên man như thế, một giai điệu trong ông bỗng dâng
trào và hòa quyện cùng lời ca như bật ra:
“Đoàn quân Việt
Minh đi (sau này đổi là Đoàn quân Việt Nam đi)
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập
ghềnh xa…
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng.
Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi
lầm than…”
Để kết thúc cùng với tiếng thét ở đoạn cao trào, mang dấu
ấn từ “Thăng Long hành khúc ca”, một bài ca yêu nước ông đã từng sáng tác
trước đó, ông tiếp tục:
“Tiến lên! Cùng thét lên!
Chí trai là nơi đây ước nguyền!”
Đến đây, ông như còn nhớ rõ:
“Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt
Bắc. Có nhiều mây và hy vọng”. Ông viết tiếp:
“Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen sạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh”. Đó là
vào một ngày cuối tháng 10/1944.
Lúc này, việc nhận nhiệm vụ từ chỉ thị của Trung ương
giao, Vũ Quý và ông đã hoàn thành. Ngày ra đời trên chiến khu, Đội quân vũ
trang khóa quân chính đã có bài ca xuất trận.
Thật đột ngột cho ông, Vũ Quý đã mất trước ngày Tổng khởi
nghĩa 19/8/1945, cái chết mà sau này ông được biết là chưa được làm rõ, khi
trên đường anh lên dự Quốc dân đại hội Tân Trào tại Việt Bắc. Cho mãi đến năm
1972, Vũ Quý mới thật sự được truy tặng liệt sĩ.
Vào ngày vinh dự sau bao năm mong mỏi này, ông được bà
Thuận (vợ Vũ Quý) và anh Bắc Sơn (con trai Vũ Quý, hiện nay đang công tác tại
Văn phòng Chủ tịch nước) mời đến gia đình dự lễ đón nhận bằng Tổ quốc ghi
công của liệt sĩ Vũ Quý.
Lúc đó, ông mới nguôi đi nỗi trăn trở, day dứt về người
bạn, người cán bộ Việt Minh mẫu mực đã sớm giác ngộ, dẫn dắt ông, chỉ đạo Đội
danh dự do ông phụ trách làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, tích cực đóng góp
cho cách mạng trong những ngày chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 lịch sử.
Vũ Quý đã không hề biết rằng Tiến quân ca đã được Bác Hồ chọn là Quốc ca của ủy ban dân tộc
giải phóng Việt Nam (như Chính phủ lâm thời) tại Quốc dân đại hội Tân Trào
cùng với việc chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc ngày 16/8/1945.
Đến Quốc hội khóa I năm 1946, Tiến quân ca đã chính thức trở thành Quốc ca
của nước Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
Một vài tiếc nuối về giai điệu và lời ca…
Với những tiếc nuối về Vũ Quý, không chỉ một lần kể với
tôi và trong gia đình, ông còn nói điều này với những bạn bè thường nhật,
thân quen, chí cốt lui tới như Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên,
Nguyễn Sáng, Thái Bá Vân, Phan Ngọc, Sơn Tùng, Dương Tường… Ông đã tâm tình
cả về một vài tiếc nuối nhỏ về giai điệu và lời ca của bài Tiến quân ca.
Là con trai thứ hai của ông, khi lớn dần, tôi hay được
phục vụ ông tiếp bạn bè hàng ngày, chè, rượu, nước, thuốc và lặt vặt bên ông.
Những buổi đó, tôi đã nhập tâm về một vài điều ông tiếc nuối thật nhỏ nhoi
này.
Giọng ông như trầm hẳn khi nói: “Tiến quân ca sáng tác xong, ít lâu sau tôi cảm thấy: do muốn
mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng, nốt nhạc ngay đầu đã phải ngân dài, điều
này có gì đó khiến tôi áy náy.
Sau này, tôi đã cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về việc đã sửa
lại chỗ này tại dàn kèn cử nhạc lễ của quân đội, ngay vào ngày là Quốc ca
chính thức được cử lên trang nghiêm để chào cờ, không chỉ là hát hành khúc
nữa. Kỳ lạ thay, Quốc ca kết thúc lại vừa vặn loạt đạn bắn lên với 21 phát
đại bác.
Về nốt nhạc đầu tiên, ông Đinh Ngọc Liên cho dàn nhạc cử
nốt nhạc này không ngân dài nữa, mà vào ngay với nốt nhạc liền sau nó. Tức
là, nếu như cũ, lời ca là: Đoàn… quân Việt Minh đi. Chữ Đoàn phải hát kéo dài
hơn. Còn khi đã sửa, phải là: Đoàn quân Việt Minh đi. Do đó các bản nhạc in
sau này đã sửa hẳn như vậy, đến nay cứ nghe là thấy rất ổn định. Tôi vẫn thầm
cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về cái nốt nhạc này. Ông tiếp tục nói:
“Còn về lời ca, có người bảo tôi là tại sao có đoạn lại
viết: Thề phanh thây uống máu quân thù! Tôi lặng người, sau đó trả lời: “Hoàn
cảnh lúc đó, nếu không có 2 triệu người chết đói dần mà tôi đã từng chứng
kiến khi bắt đầu sáng tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như vậy.
Tác dụng thiết thực của lời ở đoạn này lịch sử đã ghi
nhận. Ngày hòa bình lập lại năm 1954, gia đình tôi đã từ Việt Bắc trở về Hà
Nội sinh sống. Sau đó một vài năm, được Quốc hội mời vào Ban sửa lời Tiến quân ca, tôi đã thống nhất để
sửa lại là: Vì nhân dân chiến đấu không ngừng!”.
Ở đoạn cuối cùng, tôi có sửa là: Núi sông Việt Nam ta vững bền (nguyên lời cũ là: Chí trai là nơi đây ước nguyền hoặc
Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên). Không biết ai đó chấp bút cuối cùng, đã
đổi thành: Nước non Việt Nam ta vững
bền!. Với một ca khúc đòi hỏi trang nghiêm, chữ nước non hát lên bị
yếu. Chữ núi sông hát khỏe và hùng tráng”. Tiếp liền ông nói:
“Rồi ở lời 2, đoạn tôi đã sửa là: Cùng chung sức kiến thiết xây đời mới. Ai đó lại sửa cuối cùng
là: Cùng chung sức phấn đấu xây đời
mới”. Ông bỗng chậc lưỡi: “Chữ kiến thiết hát khỏe và khí thế biết bao
nhiêu!”. Ông kết luận:
“Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của
riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 đến nay”.
Nghiêm Bằng
(Hội Nhà văn Hà Nội) |
|||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
* Với tôi, fiohantb, CM tháng 8 / 1945 năm đó tôi tròn 10 tuổi. Tôi đã hát Tiến quân ca khi chưa là Quốc ca. Đặc biệt hai câu cuối (của 2 lời, lời 1 và lời 2) tôi không bao giờ quên cảm giác "mạnh" và "khắc sâu" so với lời sau khi đã sửa đổi thành quốc ca :
- Chí trai là đây nơi ước nguyền.
- Bắc Sơn, cùng Đô Lương, Thái Nguyên.
** Để thay cho nói, viết; tôi xin nhờ một số hình ảnh (có trên mạng) nói hộ:
Bản Tiến quân ca 1944, câu cuối lời 1: Chí trai là đây nơi ước nguyền.
câu cuối lời 2: Bắc Sơn cùng Đô Lương Thái Nguyên.
Sau nhiều năm là Quốc ca (đã có sửa lời một số chỗ) năm 1994 mới có bản TIẾN QUÂN CA viết tay có chữ viết tặng của tác giả tặng Bảo Tàng CM (22 - 12 - 94).
* Các địa danh khởi nghĩa tháng 8 / 1945 có trong lời ca: Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn; Đô Lương- một huyện của Nghệ An; Thái Nguyên: căn cứ địa của cách mạng.
Lán Khau Tý - nơi ở và làm việc đầu
tiên của Hồ Chủ tịch khi Người về ATK Định Hóa (Thái Nguyên) lãnh đạo kháng chiến chống
thực dân Pháp (20/5/1947)
ATK: an toàn khu, thủ đô KC tại Việt Bắc.
ATK: an toàn khu, thủ đô KC tại Việt Bắc.
TP Thái Nguyên ngày nay
Đồi chè Thái Nguyên
Đô Lương - Nghệ An
BẮC SƠN
Bài hay quá! Lần đầu em được đọc! Cám ơn anh!
Trả lờiXóaLời ca ban đầu: " Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu " (không phải là cùng nhau lập chiến khu). Cùng nhau có thể biết là cùng ai ?
Xóa