23 tháng 2, 2013

Trang THỨ BẢY & CHỦ NHẬT

* Bài của Trịnh Anh - Đăng trên Dân trí

Chuyện tình nổi tiếng đằng sau bài thơ danh tiếng (I)
(Dân trí)- “…Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi…”- Đằng sau mỗi câu thơ nổi tiếng ấy là một câu chuyện tình yêu nhiều nước mắt của nhà thơ Giang Nam.
Ở cái tuổi 83, nhà thơ Giang Nam vẫn còn minh mẫn, hàng ngày ông vẫn đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo, những trang hồi ký đang viết dở, tập dưỡng sinh và làm thơ tình tặng riêng cho… vợ.
Tôi hỏi ông về mối tình đầy cảm động giữa ông với bà Phạm Thị Triều, ông kể: “Ông bà gặp nhau tại Đá Bàn - căn cứ địa cách mạng của Khánh Hoà những năm kháng chiến. Gia đình bà khi đó có nghề làm mắm gia truyền tại Vĩnh Trường, Nha Trang. Chị em bà lớn lên đều lần lượt tham gia cách mạng. Còn ông, từ huyện Ninh Hoà ra Quy Nhơn học bậc cao đẳng tiểu học ở trường Quốc học. Khi Nhật đảo chính Pháp, trường đóng cửa, ông gánh theo sách vở trở lại quê nhà tham gia công tác của xã phụ trách công tác thiếu niên và thông tin tuyên truyền. Khi làm trưởng ban thông tin của xã, Giang Nam thường viết thơ văn gửi cho báo “Thắng” là tờ báo kháng chiến của Khánh Hoà, cũng là tờ báo kháng chiến đầu tiên của vùng Nam Trung bộ. Cũng nhờ viết thơ thường xuyên mà tỉnh đã có công văn xin ông về Ty Thông tin tham gia làm báo “Thắng”. Đó là một bước ngoặt trong cuộc đời Giang Nam để rồi ông đã gặp bà.

Nhà thơ Giang Nam
Cùng ở khối cơ quan Quân Dân Chính Đảng, thường xuyên được giáp mặt nhau nhưng cũng chỉ dám liếc nhìn chứ không nói chuyện riêng được lâu. Vì cái thời đó, cách mạng là trên hết. Cho đến ngày, ông có tên trong danh sách đi chiến trường. Thấy tình cảm cao đẹp của hai người đã chín muồi nên tổ chức đã gọi ông đến và nói: “Nếu yêu rồi thì phải xác định gắn với cách mạng, tình yêu của người lính phải luôn cao cả”. Niềm vui như vỡ òa, ông về tất bật chuẩn bị và nhờ tổ chức đứng ra chủ trì cho hôn nhân của ông. Sau đêm tân hôn đúng 2 ngày (vào đầu năm 1955), ông phải nhận nhiệm vụ mới ở Bình Định.
Khi chia tay, bà Triều tặng cho ông chiếc khăn tay và lá thư với lời nhắn nhủ ngắn gọn: “Hãy giữ gìn sức khỏe, tình yêu của em luôn trọn vẹn cho anh, mãi mãi là vậy và lớn thêm. Anh hãy sống cho lý tưởng cách mạng trước chứ đừng lo nghĩ cho em nhiều. Dù có bất cứ điều gì xảy ra, em cũng một lòng đợi anh, chung thủy với anh”. Ông bà và đồng đội hy vọng rằng chỉ hai năm sau sẽ được đoàn tụ theo tinh thần Hiệp định Genève giữa ta và Pháp, không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Tuy sau đó, ông được tổ chức đưa về lại Nha Trang, được đưa vào Sài Gòn làm giấy tờ hợp pháp với tên họ, quê quán mới để dễ bề hoạt động. Dù sống ngay trên thành phố quê hương mình nhưng ông bà hoạt động ở 2 tuyến khác nhau, không được gặp mặt.
Trước khi ông viết bài thơ “Quê hương”, ông đã viết bài thơ “Lá thư thành phố” ở vùng đất đỏ miền đông Nam Bộ vào năm 1958 (bài này được in trên báo Thống Nhất) khi ông đang làm công cho một tư nhân thầu khoán có đoạn: “Con vẫn ăn chơi, em vẫn khỏe / Anh yên lòng nhé chốn xa xăm / Dây bầu sai trái bên đầu ngõ / Vẫn đợi anh về hái nấu canh – Con nhớ anh thường đếm biếng ngủ / Nó khóc làm em cũng khóc theo / Anh gửi về em manh áo cũ / Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều”. Bài thơ đã được viết từ chính những câu chuyện nước mắt của đời thường.
Vợ chồng nhà thơ Giang Nam
Vào những năm 1957-1958, ông và vợ ông ở hai tuyến công tác khác nhau nhưng lại may mắn gặp nhau khi đổi vùng vào Nam Bộ hoạt động. Vợ chồng ông thuê một căn nhà lá nhỏ trong một xóm lao động nghèo ở Biên Hòa để ở. Hàng ngày vợ ông đi bán bánh bò ngoài chợ, còn ông thì làm công cho một tư sản thầu khoán người Việt. Tuy cuộc sống nghèo khổ cơ cực nhưng vợ chồng ông rất vui vì lần đầu sau 4 năm làm lễ thành hôn trên căn cứ Đá Bàn (Ninh Hòa) mới có điều kiện ở gần nhau.  

Rồi vợ ông sinh được một cháu gái. Đó là nỗi vui mừng to lớn đối với vợ chồng ông. Tuy nhiên vì công việc của chủ gắn với mỏ đá ở Long Khánh (Xuân Lộc) và con đường tỉnh lộ 2 La Gi – Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy) nên ông phải thường xuyên sống xa nhà. Hàng tuần ông chỉ về nghỉ một lần. Bà thím nhà bên người đã cho ông thuê nhà, ái ngại với hoàn cảnh của vợ ông đã thường chạy qua lại giúp đỡ - khi thì đi chợ hộ, khi thì dỗ cháu bé ngủ. Cháu rất ngon, bụ bẫm dễ nuôi nhưng thỉnh thoảng có đêm cháu khóc mãi không ngủ được. Bà thím qua bế nó và bảo vợ ông: “Trẻ nhỏ coi vậy mà khôn lắm, nó nhớ cha nó đó. Cô coi có cái áo nào của chú đắp cho nó ngủ”. Không biết vì mồ hôi quen thuộc hay vì cái gì khác mà con ông sau đó nín khóc và ngủ ngon lành.
Hai năm sau ông viết bài thơ “Quê hương” lần này là dưới chân núi Hòn Dù, cách 40 cây số phía Tây thành phố Nha Trang, nơi đóng căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hòa lúc bấy giờ. Ông ngồi trong căn chòi nhỏ của mình dưới tán lá rừng, trước mắt là ngọn đèn dầu được che kín cả ba mặt chỉ trừ một chút ánh sáng rọi trên trang giấy. “Hầu như tôi đã viết một mạch không xóa sửa, hình ảnh cứ như được sắp xếp sắn và hiện ra đầu ngòi bút. Từng đoạn nước mắt tôi trào ra: Giặc bắn em rồi quăng mất xác / Chỉ vì em là du kích em ơi / Đau xé lòng anh chết nửa con người… và nhất là ở hai câu cuối cùng của bài: Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất / Có một phần xương thịt của em tôi – Y như máu thịt của người tôi yêu đã hóa thành những hạt bụi trộn vào mỗi hòn đất dù nhỏ nhất trên trái đất này. Tôi không ngờ bài thơ tôi viết trong giây phút đau đớn của đời mình lại trở thành một bài thơ tình yêu được người đọc yêu thích”.
Hai ông bà vẫn tình tứ, ân tình ở tuổi 80...
Chiều hôm đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy gọi ông lên chỗ làm việc. Ông có linh cảm điều gì đó không bình thường mới xảy ra. Quả nhiên sau đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy đã nói thật: tin của cơ sở trong thành vừa báo cho biết vợ và con gái ông bị địch bắt trước đó hơn một năm đã bị chúng thủ tiêu, trong hoàn cảnh nào thì chưa xác minh được nhưng chắc chắn là không còn sống.
Ông choáng váng trước cái tin đột ngột ấy như trời vừa sập xuống đầu mình. Ông không đủ can đảm hỏi thêm điều gì nữa. Những kỷ niệm cũ, tình yêu e ấp vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt, cả hai mẹ con điều khóc… bỗng sống dậy xót xa nhức nhối và rõ ràng cứ như mới xảy ra hôm qua. Và ông đã viết bài thơ “Quê hương” trong tâm trạng đau đớn tột cùng....

(Còn nữa)
Trịnh Anh
Chuyện tình nổi tiếng đằng sau bài thơ danh tiếng (II)
.... Tưởng rằng vợ con đã bị địch giết hại, nhưng bất ngờ, năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái ông được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Cô con gái nhỏ phải theo mẹ hết nhà giam này sang nhà giam khác, bà Triều phải đấu tranh quyết không chịu xa con, vì thế mà mẹ con vẫn được ở bên nhau vẹn toàn.
Gia đình nhỏ được đoàn tụ trong nước mắt. Thế nhưng ngay sau đó lại có điện của Khu ủy khu 6 gửi Tỉnh ủy Khánh Hoà điều ông lên bổ sung cho Ban Tuyên huấn Khu. Ông bà vừa gặp mặt lại phải một lần nữa chia tay để ông về cơ quan mới đóng ở vùng giáp ranh hai tỉnh Đăk Lăk và Tuyên Đức. Về Khu chưa được bao lâu ông được cử đi học Trường Đảng do Trung ương cục miền Nam mở ở Tây Ninh, sau đó ông được giữ lại công tác tại Hội Văn nghệ giải phóng với chức danh Phó Tổng Thư ký Hội.
Từ đó là quãng thời gian ông gắn bó với hoạt động văn nghệ giải phóng. Thêm một lần nữa ông lại phải chia ly với vợ con, năm 1968 bà Triều lại bị bắt lần hai vẫn với cô con gái nhỏ do sơ xuất của người giao liên đã để lộ đầu mối. Hai mẹ con bà bị địch buộc tội đưa ra tòa mấy lần nhưng không thành là nhờ một luật sư tốt bụng bào chữa giúp. Chính vì thế mà không bị đầy ra Côn Đảo. Mãi đến năm 1973, sau khi Hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết bà mới được phía bên kia trả về. Sau bao năm ly biệt, lúc này cô con gái cũng đã mười lăm tuổi, còn vợ chồng Giang Nam tuổi cũng đã cao nên không sinh thêm được người con nào nữa. Khi đất nước thống nhất vợ chồng Giang Nam tìm người luật sư kia khắp nơi để trả ơn nhưng không gặp.

 Chưa hết, sau ngày giải phóng miền Nam, ông cùng với đội ngũ văn nghệ sĩ Hội văn nghệ giải phóng hoạt động tại T4 trước đây được giao kiện toàn các tổ chức văn nghệ của Sài Gòn. Còn vợ ông sau giải phóng vẫn tham gia công tác trong chính quyền mới tại Thành phố Nha Trang. Những tưởng sau những biến cố thăng trầm của cuộc đời cách mạng, giờ đây ông bà sẽ được đoàn tụ, nhưng không, còn một cuộc thiên di nữa khi năm 1978 ông được điều ra Hà Nội phụ trách mảng văn nghệ miền Nam kiêm Tổng biên tập báo Văn Nghệ.
Ngày ấy cơ quan Báo Văn Nghệ chưa có chỗ ở, ông phải ở tạm căn phòng vốn là phòng tắm tại cơ quan Hội Nhà văn ở 65 Nguyễn Du. Ông động viên bà ra Hà Nội ở, tưởng rằng đất nước hoà bình cuộc sống sẽ ổn định hơn nhưng khi từ Nha Trang ra, nhìn thấy cảnh ăn ở của ông, bà đã oà khóc nức nở vì không thể tin ông làm “quan văn nghệ” Trung ương mà sống tạm bợ cơ hàn thế. Không quen với khí hậu miền Bắc bà đau ốm liên miên. Cực chẳng đã, ông đành để cho vợ trở lại Nha Trang, chịu cảnh vợ Nam chồng Bắc.
Khi tình hình Khánh Hoà có những thay đổi, tỉnh có đặt vấn đề với Trung ương xin ông về chỉ đạo khối tư tưởng văn hoá. Sau quá trình cân nhắc, trên đã đồng ý để ông về công tác tại quê nhà. Ông chính thức tiếp nhận vị trí Phó Chủ tịch Tỉnh Khánh Hoà. Từ đó cuộc sống gia đình của ông bà mới phần nào ổn định.

Bây giờ, mọi chuyện đã lùi xa. Sau bấy nhiêu dâu bể ông ngồi đó bên những dò lan vươn cành đu đưa trước làn gió biển. Vẫn gương mặt với đôi kính gọng đen mắt trắng bình thản trước thế sự. Cô con gái duy nhất của ông bà hai lần vào tù cùng mẹ nay đã là một phụ nữ ngoài năm mươi, hiện giữ cương vị Phó Giám đốc công ty vận tải biển.
Trong ngôi nhà thân thuộc, phía sau ông già nhỏ nhắn bên bàn viết vẫn có bóng dáng người bạn đời thấp thoáng ở phòng trong. Bà năm nay cũng đã bước qua tuổi 80, mắt chưa mờ nhưng chân thì đã chậm. Năm 2005, ông đã trải qua một cuộc phẫu thuật nối động mạch vành tim hiếm có. Trên thế giới phẫu thuật này chưa từng được tiến hành ở bệnh nhân trên tuổi bảy mươi. Ca phẫu thuật đã thành công. Bác sĩ người Pháp trực tiếp mổ biết ông nói và nghe tốt tiếng Pháp, đã đợi bằng được “bệnh nhân chiến trường” tỉnh lại để nói lời chúc mừng.
Căn nhà của vợ chồng ông đang ở hiện nay được bà Triều mua lại của một người quen từ trước giải phóng, căn nhà rộng rãi thoáng mát, phía trước hiên là thư phòng, bên trên có những dò lan ra hoa đều đặn- đó cũng là nơi Giang Nam ngồi đọc báo, sáng tác và tiếp khách mỗi ngày. Trong căn nhà ông bất cứ ai bước vào cũng thấy niềm vui và hạnh phúc của một đôi bạn ngoài 80 mà vẫn vui vẻ tình tứ như thuở nào. Ông bà sống giản dị, điềm đạm nhưng qua cách tiếp khách cũng đủ thấy họ trọng nghĩa tình.
Suốt cuộc đời ông chỉ yêu duy nhất một người, ở tuổi 83 nhưng lúc nào ông luôn gọi vợ bằng những từ ngọt ngào: em yêu, em thương… giống ngày son trẻ.Khi tôi ngỏ ý xin chụp một tấm ảnh ông bà sau cuộc trò chuyện, ông đứng dậy vào phòng gọi “Em ơi, có nhà báo xin chụp hình”. Khi bà đi ra, ông lại bảo “Ngồi đây em”, tôi bấm máy và cảm thấy tình yêu giữa họ có sức gắn kết bền chặt đến phi thường.
Trịnh Anh
* Bài thơ QUÊ HƯƠNG của GIANG NAM


Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Giang Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* BẠN CÓ THỂ DÙNG CÁC THẺ SAU ĐỂ ĐƯA VÀO COM:
- Ảnh : [img]Link hình ảnh URL[/img]
- Video: [youtube]Link Video[/youtube]
- Nhaccuatui: [nct]Link nhạc[/nct]