Chuyện tình nổi tiếng đằng sau bài thơ danh tiếng (I)
Ở cái tuổi 83, nhà thơ Giang Nam vẫn
còn minh mẫn, hàng ngày ông vẫn đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo, những
trang hồi ký đang viết dở, tập dưỡng sinh và làm thơ tình tặng riêng cho… vợ.
Tôi hỏi ông về mối tình đầy cảm động
giữa ông với bà Phạm Thị Triều, ông kể: “Ông bà gặp nhau tại Đá Bàn - căn cứ
địa cách mạng của Khánh Hoà những năm kháng chiến. Gia đình bà khi đó có nghề
làm mắm gia truyền tại Vĩnh Trường, Nha Trang. Chị em bà lớn lên đều lần lượt
tham gia cách mạng. Còn ông, từ huyện Ninh Hoà ra Quy Nhơn học bậc cao đẳng
tiểu học ở trường Quốc học. Khi Nhật đảo chính Pháp, trường đóng cửa, ông gánh
theo sách vở trở lại quê nhà tham gia công tác của xã phụ trách công tác thiếu
niên và thông tin tuyên truyền. Khi làm trưởng ban thông tin của xã, Giang Nam
thường viết thơ văn gửi cho báo “Thắng” là tờ báo kháng chiến của Khánh Hoà,
cũng là tờ báo kháng chiến đầu tiên của vùng Nam Trung bộ. Cũng nhờ viết thơ
thường xuyên mà tỉnh đã có công văn xin ông về Ty Thông tin tham gia làm báo
“Thắng”. Đó là một bước ngoặt trong cuộc đời Giang Nam để rồi ông đã gặp bà.
Nhà thơ Giang
Nam
Cùng ở khối cơ quan Quân Dân Chính
Đảng, thường xuyên được giáp mặt nhau nhưng cũng chỉ dám liếc nhìn chứ không
nói chuyện riêng được lâu. Vì cái thời đó, cách mạng là trên hết. Cho đến ngày,
ông có tên trong danh sách đi chiến trường. Thấy tình cảm cao đẹp của hai người
đã chín muồi nên tổ chức đã gọi ông đến và nói: “Nếu yêu rồi thì phải xác định
gắn với cách mạng, tình yêu của người lính phải luôn cao cả”. Niềm vui như vỡ
òa, ông về tất bật chuẩn bị và nhờ tổ chức đứng ra chủ trì cho hôn nhân của
ông. Sau đêm tân hôn đúng 2 ngày (vào đầu năm 1955), ông phải nhận nhiệm vụ mới
ở Bình Định.
Khi chia tay, bà Triều tặng cho ông
chiếc khăn tay và lá thư với lời nhắn nhủ ngắn gọn: “Hãy giữ gìn sức khỏe, tình
yêu của em luôn trọn vẹn cho anh, mãi mãi là vậy và lớn thêm. Anh hãy sống cho
lý tưởng cách mạng trước chứ đừng lo nghĩ cho em nhiều. Dù có bất cứ điều gì
xảy ra, em cũng một lòng đợi anh, chung thủy với anh”. Ông bà và đồng đội hy
vọng rằng chỉ hai năm sau sẽ được đoàn tụ theo tinh thần Hiệp định Genève giữa
ta và Pháp, không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Tuy sau đó, ông
được tổ chức đưa về lại Nha Trang, được đưa vào Sài Gòn làm giấy tờ hợp pháp
với tên họ, quê quán mới để dễ bề hoạt động. Dù sống ngay trên thành phố quê
hương mình nhưng ông bà hoạt động ở 2 tuyến khác nhau, không được gặp mặt.
Trước khi ông viết bài thơ “Quê
hương”, ông đã viết bài thơ “Lá thư thành phố” ở vùng đất đỏ miền đông Nam Bộ
vào năm 1958 (bài này được in trên báo Thống Nhất) khi ông đang làm công cho
một tư nhân thầu khoán có đoạn: “Con vẫn ăn chơi, em vẫn khỏe / Anh yên lòng
nhé chốn xa xăm / Dây bầu sai trái bên đầu ngõ / Vẫn đợi anh về hái nấu canh –
Con nhớ anh thường đếm biếng ngủ / Nó khóc làm em cũng khóc theo / Anh gửi về
em manh áo cũ / Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều”. Bài thơ đã được viết từ
chính những câu chuyện nước mắt của đời thường.
Vợ chồng nhà
thơ Giang Nam
Vào những năm 1957-1958, ông và vợ
ông ở hai tuyến công tác khác nhau nhưng lại may mắn gặp nhau khi đổi vùng vào
Nam Bộ hoạt động. Vợ chồng ông thuê một căn nhà lá nhỏ trong một xóm lao động
nghèo ở Biên Hòa để ở. Hàng ngày vợ ông đi bán bánh bò ngoài chợ, còn ông thì
làm công cho một tư sản thầu khoán người Việt. Tuy cuộc sống nghèo khổ cơ
cực nhưng vợ chồng ông rất vui vì lần đầu sau 4 năm làm lễ thành hôn trên căn
cứ Đá Bàn (Ninh Hòa) mới có điều kiện ở gần nhau.
Rồi vợ ông sinh được một cháu gái.
Đó là nỗi vui mừng to lớn đối với vợ chồng ông. Tuy nhiên vì công việc của chủ
gắn với mỏ đá ở Long Khánh (Xuân Lộc) và con đường tỉnh lộ 2 La Gi – Hàm Tân
(tỉnh Bình Tuy) nên ông phải thường xuyên sống xa nhà. Hàng tuần ông chỉ về
nghỉ một lần. Bà thím nhà bên người đã cho ông thuê nhà, ái ngại với hoàn cảnh
của vợ ông đã thường chạy qua lại giúp đỡ - khi thì đi chợ hộ, khi thì dỗ cháu
bé ngủ. Cháu rất ngon, bụ bẫm dễ nuôi nhưng thỉnh thoảng có đêm cháu khóc mãi
không ngủ được. Bà thím qua bế nó và bảo vợ ông: “Trẻ nhỏ coi vậy mà khôn lắm,
nó nhớ cha nó đó. Cô coi có cái áo nào của chú đắp cho nó ngủ”. Không biết vì
mồ hôi quen thuộc hay vì cái gì khác mà con ông sau đó nín khóc và ngủ ngon
lành.
Hai năm sau ông viết bài thơ “Quê
hương” lần này là dưới chân núi Hòn Dù, cách 40 cây số phía Tây thành phố Nha
Trang, nơi đóng căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hòa lúc bấy giờ. Ông ngồi trong
căn chòi nhỏ của mình dưới tán lá rừng, trước mắt là ngọn đèn dầu được che kín
cả ba mặt chỉ trừ một chút ánh sáng rọi trên trang giấy. “Hầu như tôi đã viết
một mạch không xóa sửa, hình ảnh cứ như được sắp xếp sắn và hiện ra đầu ngòi
bút. Từng đoạn nước mắt tôi trào ra: Giặc bắn em rồi quăng mất xác / Chỉ vì
em là du kích em ơi / Đau xé lòng anh chết nửa con người… và nhất là ở hai
câu cuối cùng của bài: Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất / Có một phần
xương thịt của em tôi – Y như máu thịt của người tôi yêu đã hóa thành những
hạt bụi trộn vào mỗi hòn đất dù nhỏ nhất trên trái đất này. Tôi không ngờ bài
thơ tôi viết trong giây phút đau đớn của đời mình lại trở thành một bài thơ
tình yêu được người đọc yêu thích”.
Hai ông bà vẫn
tình tứ, ân tình ở tuổi 80...
Chiều hôm đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy
gọi ông lên chỗ làm việc. Ông có linh cảm điều gì đó không bình thường mới xảy
ra. Quả nhiên sau đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy đã nói thật: tin của cơ sở trong
thành vừa báo cho biết vợ và con gái ông bị địch bắt trước đó hơn một năm đã bị
chúng thủ tiêu, trong hoàn cảnh nào thì chưa xác minh được nhưng chắc chắn là
không còn sống.
Ông choáng váng trước cái tin đột
ngột ấy như trời vừa sập xuống đầu mình. Ông không đủ can đảm hỏi thêm điều gì
nữa. Những kỷ niệm cũ, tình yêu e ấp vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay
đầy nước mắt, cả hai mẹ con điều khóc… bỗng sống dậy xót xa nhức nhối và rõ
ràng cứ như mới xảy ra hôm qua. Và ông đã viết bài thơ “Quê hương” trong tâm
trạng đau đớn tột cùng....
(Còn nữa)
Trịnh
Anh
Chuyện tình nổi tiếng đằng sau bài thơ danh tiếng (II)
.... Tưởng rằng vợ con đã bị địch
giết hại, nhưng bất ngờ, năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái ông được thả
về do không tìm ra căn cứ kết tội. Cô con gái nhỏ phải theo mẹ hết nhà giam này
sang nhà giam khác, bà Triều phải đấu tranh quyết không chịu xa con, vì thế mà
mẹ con vẫn được ở bên nhau vẹn toàn.
Gia đình nhỏ được đoàn tụ trong nước
mắt. Thế nhưng ngay sau đó lại có điện của Khu ủy khu 6 gửi Tỉnh ủy Khánh Hoà
điều ông lên bổ sung cho Ban Tuyên huấn Khu. Ông bà vừa gặp mặt lại phải một
lần nữa chia tay để ông về cơ quan mới đóng ở vùng giáp ranh hai tỉnh Đăk Lăk
và Tuyên Đức. Về Khu chưa được bao lâu ông được cử đi học Trường Đảng do Trung
ương cục miền Nam mở ở Tây Ninh, sau đó ông được giữ lại công tác tại Hội Văn
nghệ giải phóng với chức danh Phó Tổng Thư ký Hội.
Từ đó là quãng thời gian ông gắn bó
với hoạt động văn nghệ giải phóng. Thêm một lần nữa ông lại phải chia ly với vợ
con, năm 1968 bà Triều lại bị bắt lần hai vẫn với cô con gái nhỏ do sơ xuất của
người giao liên đã để lộ đầu mối. Hai mẹ con bà bị địch buộc tội đưa ra tòa mấy
lần nhưng không thành là nhờ một luật sư tốt bụng bào chữa giúp. Chính vì thế
mà không bị đầy ra Côn Đảo. Mãi đến năm 1973, sau khi Hiệp định Paris về lập
lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết bà mới được phía bên kia trả về. Sau bao
năm ly biệt, lúc này cô con gái cũng đã mười lăm tuổi, còn vợ chồng Giang Nam
tuổi cũng đã cao nên không sinh thêm được người con nào nữa. Khi đất nước thống
nhất vợ chồng Giang Nam tìm người luật sư kia khắp nơi để trả ơn nhưng không gặp.
Chưa hết, sau ngày giải phóng
miền Nam, ông cùng với đội ngũ văn nghệ sĩ Hội văn nghệ giải phóng hoạt động
tại T4 trước đây được giao kiện toàn các tổ chức văn nghệ của Sài Gòn. Còn vợ
ông sau giải phóng vẫn tham gia công tác trong chính quyền mới tại Thành phố
Nha Trang. Những tưởng sau những biến cố thăng trầm của cuộc đời cách mạng, giờ
đây ông bà sẽ được đoàn tụ, nhưng không, còn một cuộc thiên di nữa khi năm 1978
ông được điều ra Hà Nội phụ trách mảng văn nghệ miền Nam kiêm Tổng biên tập báo
Văn Nghệ.
Ngày ấy cơ quan Báo Văn Nghệ chưa có
chỗ ở, ông phải ở tạm căn phòng vốn là phòng tắm tại cơ quan Hội Nhà văn ở 65
Nguyễn Du. Ông động viên bà ra Hà Nội ở, tưởng rằng đất nước hoà bình cuộc sống
sẽ ổn định hơn nhưng khi từ Nha Trang ra, nhìn thấy cảnh ăn ở của ông, bà đã oà
khóc nức nở vì không thể tin ông làm “quan văn nghệ” Trung ương mà sống tạm bợ
cơ hàn thế. Không quen với khí hậu miền Bắc bà đau ốm liên miên. Cực chẳng đã,
ông đành để cho vợ trở lại Nha Trang, chịu cảnh vợ Nam chồng Bắc.
Khi tình hình Khánh Hoà có những
thay đổi, tỉnh có đặt vấn đề với Trung ương xin ông về chỉ đạo khối tư tưởng
văn hoá. Sau quá trình cân nhắc, trên đã đồng ý để ông về công tác tại quê nhà.
Ông chính thức tiếp nhận vị trí Phó Chủ tịch Tỉnh Khánh Hoà. Từ đó cuộc sống
gia đình của ông bà mới phần nào ổn định.
Bây giờ, mọi chuyện đã lùi xa. Sau
bấy nhiêu dâu bể ông ngồi đó bên những dò lan vươn cành đu đưa trước làn gió
biển. Vẫn gương mặt với đôi kính gọng đen mắt trắng bình thản trước thế sự. Cô
con gái duy nhất của ông bà hai lần vào tù cùng mẹ nay đã là một phụ nữ ngoài
năm mươi, hiện giữ cương vị Phó Giám đốc công ty vận tải biển.
Trong ngôi nhà thân thuộc, phía sau
ông già nhỏ nhắn bên bàn viết vẫn có bóng dáng người bạn đời thấp thoáng ở
phòng trong. Bà năm nay cũng đã bước qua tuổi 80, mắt chưa mờ nhưng chân thì đã
chậm. Năm 2005, ông đã trải qua một cuộc phẫu thuật nối động mạch vành tim hiếm
có. Trên thế giới phẫu thuật này chưa từng được tiến hành ở bệnh nhân trên tuổi
bảy mươi. Ca phẫu thuật đã thành công. Bác sĩ người Pháp trực tiếp mổ biết ông
nói và nghe tốt tiếng Pháp, đã đợi bằng được “bệnh nhân chiến trường” tỉnh lại
để nói lời chúc mừng.
Căn nhà của vợ chồng ông đang ở hiện
nay được bà Triều mua lại của một người quen từ trước giải phóng, căn nhà rộng
rãi thoáng mát, phía trước hiên là thư phòng, bên trên có những dò lan ra hoa
đều đặn- đó cũng là nơi Giang Nam ngồi đọc báo, sáng tác và tiếp khách mỗi
ngày. Trong căn nhà ông bất cứ ai bước vào cũng thấy niềm vui và hạnh phúc của
một đôi bạn ngoài 80 mà vẫn vui vẻ tình tứ như thuở nào. Ông bà sống giản dị,
điềm đạm nhưng qua cách tiếp khách cũng đủ thấy họ trọng nghĩa tình.
Suốt cuộc đời ông chỉ yêu duy nhất
một người, ở tuổi 83 nhưng lúc nào ông luôn gọi vợ bằng những từ ngọt ngào: em
yêu, em thương… giống ngày son trẻ.Khi tôi ngỏ ý xin chụp một tấm ảnh ông bà
sau cuộc trò chuyện, ông đứng dậy vào phòng gọi “Em ơi, có nhà báo xin chụp
hình”. Khi bà đi ra, ông lại bảo “Ngồi đây em”, tôi bấm máy và cảm thấy tình
yêu giữa họ có sức gắn kết bền chặt đến phi thường.
Trịnh
Anh
* Bài thơ QUÊ HƯƠNG của GIANG NAM
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Giang Nam
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Giang Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* BẠN CÓ THỂ DÙNG CÁC THẺ SAU ĐỂ ĐƯA VÀO COM:
- Ảnh : [img]Link hình ảnh URL[/img]
- Video: [youtube]Link Video[/youtube]
- Nhaccuatui: [nct]Link nhạc[/nct]